Mối tương quan giữa thứ tự sinh và ung thư não ở trẻ em: Nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp

Mai V. Nguyen 1* , Mo T. Tran 1* , Chi TDu Tran 1 , Quang H. Tran 1 , Van Thuy TT 1 ,

Lam N. Phung 1 , Huyen X. Vu 1 , Linh C. Le 1,2 , Paolo Boffetta 3¶ , Hung N. Luu 4,5,6¶

1 Vietnam Colorectal Cancer and Research Program, Vinmec Healthcare System, Hanoi, Vietnam; 2 VinUniversity Project - Health Sciences, Hanoi, Vietnam; 3 Tisch Cancer Institute, Icahn School of Medicine, Mount Sinai School of Medicine, New York, NY; 4 Division of Epidemiology, Department of Medicine, Vanderbilt Epidemiology Center, Vanderbilt-Ingram Comprehensive Cancer Center, Vanderbilt University School of Medicine, Nashville, TN, USA; 5 Department of Epidemiology, University of Pittsburgh Graduate School of Public Health, Pittsburgh, PA, USA; 6 Division of Cancer Control and Population Sciences, University of Pittsburgh Medical Center-Hillman Cancer Center, Pittsburgh, PA, USA

* Đồng tác giả thứ nhất

¶ Đồng tác giả cuối

Thông tin chung: Với những tiến bộ trong kỹ thuật chẩn đoán phát hiện sớm, tỷ lệ mắc mới ung thư não trẻ em (CBT) trên toàn cầu cao hơn trước đây. Chúng tôi đã tiến hành một nghiên cứu đánh giá tổng quan và phân tích tổng hợp nhằm xác định rõ mối tương quan giữa thứ tự sinh và CBT.

Phương pháp: Chúng tôi đã dựa vào các hướng dẫn chuẩn để tìm kiếm một cách hệ thống các bài báo bằng tiếng Anh được xuất bản trước tháng 3/2018 từ các cơ sở dữ liệu OvidMedline, PubMed, và Cochrane Library. Việc đánh giá chất lượng được thực hiện bằng thang đo Newcastle-Ottawa. Phân tích tổng hợp cho biết ước tính nguy cơ chung với khoảng tin cậy (CI) 95% đối với thứ tự sinh và CBT.

Kết quả: Chúng tôi đã xác định được 16 nghiên cứu bệnh-chứng với tổng cỡ mẫu là 32,439 ca bệnh và 166,144 trường hợp chứng và 3 nghiên cứu thuần tập tiến cứu (4,515 ca mắc mới u não trẻ em trong số 5.281,558 người tham gia). So với lần sinh đầu tiên, tỷ suất chênh meta (mOR) đối với lần sinh thứ 2 trong các nghiên cứu bệnh chứng là 1.04 (95% CI 1.01-1.07), đối với lần sinh thứ 3 là 0.98 (95% CI: 0.90 – 1.06) và đối với lần sinh thứ 4 là 0,85 (95%CI: 0,78 – 0,92). Tỷ suất meta-hazard (mHR) đối với lần sinh thứ 2 hoặc những lần sinh sau đó đối với lần sinh đầu tiên là 1.00 (95% CI:0.96-1.05).

Kết luận: Chúng tôi không thấy có mối liên quan giữa thứ tự sinh và CBT ở cả thiết kế nghiên cứu bệnh-chứng và nghiên cứu thuần tập; Có mối tương quan nhất định được quan sát thấy ở lần sinh thứ 4 đáng để xem xét kỹ hơn.

XEM THÊM:

  • Đánh giá kết quả hai năm hóa xạ trị đồng thời sử dụng kĩ thuật Vmat trong điều trị triệt căn một số ung thư đầu cổ
  • Đánh giá sai số setup bệnh nhân xạ trị vmat ung thư vùng đầu cổ sử dụng mặt nạ cố định 3 điểm
  • Đo liều kiểm tra chất lượng kế hoạch trước xạ trị điều biến thể tích cung tròn