Thông tư 1512/LĐ-NC Về việc hướng dẫn giải quyết một số nhân công mà trước đây các xí nghiệp, công trường... đã tự ý tuyển dụng
Số, ký hiệu | 1512/LĐ-NC |
Loại văn bản | Thông tư |
Ngày ban hành | 15/10/1960 |
Ngày hiệu lực | 30/10/1960 |
Ngày đăng công báo | |
Nguồn thu nhập | Sách-Nhà Xuất bản Lao động; |
Nghành | |
Lĩnh vực | |
Cơ quan ban hành | Bộ Lao động |
Chức danh | Bộ trưởng |
Người ký | Nguyễn Văn Tạo |
Phạm vi | Toàn quốc |
Thông tin áp dụng | |
Tình trạng hiệu lực | Hết hiệu lực toàn bộ |
BỘ LAO ĐỘNG
Số:
1512/LĐ-NC
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội,
ngày
15 tháng
10 năm
1960
|
THÔNG TƯ
CỦA BỘ LAO ĐỘNG SỐ 1512/LĐ-NC NGÀY 15 THÁNG 10 NĂM 1960 HƯỚNG DẪN GIẢI QUYẾT SỐ NHÂN CÔNG MÀ TRƯỚC ĐÂY CÁC
XÍ NGHIỆP, CÔNG TRƯỜNG... ĐÃ TỰ Ý TUYỂN DỤNG
BỘ TRƯỞNG LAO ĐỘNG
Kính gửi: - Các Bộ, các ngành trung ương
- Các uỷ ban hành chính khu, thành phố và tỉnh
- Các sở, ty, phòng lao động
Ở Điều 6 trong bản Điều lệ tạm thời quy định việc tuyển dụng và sử dụng nhân công ở nông thôn của Hội đồng Chính phủ đã quy định: "Các ngành trước đây đã tuyển dụng nhân công ở nông thôn, tuyển dụng trong thời gian tương đối dài và hay chỉ tạm thời, mà không do Uỷ ban hành chính các địa phương phân phối, phải báo cáo cho Uỷ ban hành chính và cơ quan lao động khu, thành,tỉnh nơi có nhân công và nơi mở xí nghiệp, công trường... để tuỳ tình hình cụ thể, các địa phương sẽ có biện pháp giải quyết".
Bộ Lao động hướng dẫn cách thực hiện như sau:
1. Các Bộ, các ngành, các Uỷ ban hành chính và sở, ty, phòng lao động khu, thành, tỉnh cần có kế hoạch hướng dẫn các xí nghiệp, công trường... soát xét và lập danh sách báo cáo số nhân công mà trước đây các xí nghiệp, công trường... đã tự ý tuyển dụng cho Uỷ ban hành chính và sở, ty, phòng lao động khu, thành, tỉnh nơi có nhân công và nơi mở xí nghiệp, công trường biết. Mặt khác, xí nghiệp, công trường phải tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm trong việc tuyển dụng và sử dụng nhân công và nêu ý kiến đề nghị Uỷ ban hành chính và sở, ty, phòng lao động giải quyết số nhân công đó.
2. Để đảm bảo thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1960, tránh những lãng phí cho công quỹ và ảnh hưởng tư tưởng trong quần chúng nên số nhân công mà các xí nghiệp, công trường đã trót tự tuyển Uỷ ban hành chính và sở, ty, phòng lao động các khu, thành, tỉnh vẫn để cho các xí nghiệp, công trường .. tiếp tục sử dụng (trừ những phần tử xấu và địa chủ như Điều 7 trong bản Điều lệ mà Chính phủ đã quy định) trừ trường hợp đặc biệt có những người mà Uỷ ban hành chính và sở, ty, phòng lao động xét thấy thật cần thiết phải cho về địa phương, vì theo báo cáo của Uỷ ban hành chính huyện, châu, quận, xã và hợp tác xã, nếu để người đó ở lại sẽ không có lợi cho sản xuất nông nghiệp, hợp tác hoá, cho việc đoàn kết trong nhân dân và việc giải quyết công ăn việc làm cho lao động thiếu việc ở thành phố, thì Uỷ ban hành chính và sở, ty, phòng lao động sẽ xét quyết định cho các xí nghiệp, công trường phải trả về địa phương và bố trí số nhân công khác tới thay thế. Nếu số nhân công này cũng sắp hết thời hạn làm việc thì không cần thiết cho về ngay mà nên để cho họ làm cho hết thời hạn hợp đồng rồi cho về luôn.
Khi xét và quyết định vấn đề này, Uỷ ban hành chính và sở, ty, phòng lao động phải nhìn tới 2 mặt: đảm bảo việc thực hiện kế haọch Nhà nước của các ngành đồng thời đảm bảo cho phong trào sản xuất nông nghiệp và hợp tác hoá phát triển. Vì vậy khi giải quyết cần thận trọng cân nhắc kỹ lưỡng tránh những trường hợp không thật cần thiết lắm mà vẫn cho về, ảnh hưởng không tốt tới việc thực hiện kế hoạch Nhà nước, gây nên lãng phí cho công quỹ và ảnh hưởng đến tư tưởng của quần chúng. Việc xét và quyết định cho nhân công về là Uỷ ban hành chính và sở, ty, phòng lao động khu, thành, tỉnh. Các Uỷ ban hành chính xã và các hợp tác xã muốn gọi nhân công về phải báo cáo đề nghị lên Uỷ ban hành chính và sở, ty phòng lao động xét, không được viết giấya trực tiếp lên xí nghiệp, công trường gọi nhân công về.
3. Đối với những người mà Uỷ ban hành chính và sở,ty, phòng lao động quyết định cho về, các xí nghiệp, công trường phải giải thích và thanh toán chu đáo mọi quyền lợi cho họ trước khi về. Đối với những người mà xí nghiệp, công trường còn được tiếp tục sử dụng phải tăng cường việc quản lý, với những người mà xí nghiệp, công trường... định sử dụng lâu dài và tuyển vào biên chế phải báo cáo xin ý kiến cơ quan lao động, mặt khác phải kiểm tra lại tiêu chuẩn làm đầy đủ hồ sơ lý lịch, có sự theo dõi chu đáo để sau này tiện xét vào biên chế chính thức. Với những người sử dụng tạm thời nếu chưa ký kết hợp đồng thì giữa xí nghiệp, công trường... và nhân công tiến hành ký kết, khi làm hết thời hạn ghi trong hợp đồng phải cho nhân công trở về địa phương, trường hợp vì yêu cầu của sản xuất mà muốn tiếp tục sử dụng thì xí nghiệp, công trường... phải báo cáo cho nhân công trở về địa phương, trường hợp vì yêu cầu của sản xuất mà muốn tiếp tục sử dụng thì xí nghiệp, công trường... phải báo cáo và có sự chấp thuận của sở, ty, phòng lao động địa phương nơi có nhân công.
Trên đây Bộ hướng dẫn một số phương hướng giải quyết, các Uỷ ban hành chính và sở, ty, phòng lao động khu, thành, tỉnh căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương mình mà có kế hoạch cụ thể hướng dẫn các ngành, các xí nghiệp, công trường... thực hiện. Kết quả thực hiện đề nghị báo cáo về cho Bộ biết.
|
Nguyễn Văn Tạo (Đã ký) |
Bộ trưởng | |||
(Đã ký) | |||
Nguyễn Văn Tạo |
Văn bản được HD, QĐ chi tiết(0)
Văn bản hiện thời(1)
Văn bản HD, QĐ chi tiết(0)
Văn bản hết hiệu lực(0)
Văn bản căn cứ(0)
Văn bản quy định hết hiệu lực(0)
Văn bản bị hết hiệu lực 1 phần(0)
Văn bản dẫn chiếu(0)
Văn bản quy định hết hiệu lực 1 phần(0)
Văn bản bị đình chỉ(0)
Văn bản liên quan khác(0)
Văn bản đình chỉ(0)
Văn bản bị đình chỉ 1 phần(0)
Văn bản đình chỉ 1 phần(0)
Văn bản được bổ sung(0)
Văn bản bổ sung(0)
Văn bản được sửa đổi(0)
Văn bản sửa đổi(0)
- 1512.LD.NC.doc - Tải về
Thời gian ban hành
Cơ quan ban hành
Loại văn bản
- Quyết định
- Nghị quyết
- Chỉ thị
- Thông tư
- Thông tư liên tịch
- Thông báo
- Nghị định
- Chương trình
- Pháp lệnh
- Luật
- Văn bản liên quan
- Văn bản khác
- Sắc lệnh
- Văn bản hợp nhất
- Nghị quyết liên tịch
- Công văn
- Bộ luật
- Lệnh
- Thông tư liên bộ
- Hiến pháp
- Hiệp định
- Sắc luật
- Công điện
- Quy chuẩn
- Tiêu chuẩn Việt Nam
- Hướng dẫn
- Quy chế
- Quy định
Chính phủ
Bộ ngành
- Bộ Công an
- Bộ Công thương
- Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Bộ Giao thông vận tải
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Bộ Khoa học và Công nghệ
- Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
- Bộ Nội vụ
- Bộ Ngoại giao
- Bộ Quốc phòng
- Bộ Tài chính
- Bộ Tài nguyên và Môi trường
- Bộ Tư pháp
- Bộ Thông tin và Truyền thông
- Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch
- Bộ Xây dựng
- Bộ Y tế
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Thanh tra Chính phủ
- Ủy ban Dân tộc
- Văn phòng Chính phủ
- Kiểm toán Nhà nước
- Tòa án nhân dân tối cao
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Địa phương
- Hà Nội
- TP HCM
- Đà Nẵng
- Hải Phòng
- Cần Thơ
- An Giang
- Bà Rịa - Vũng Tàu
- Bắc Giang
- Bắc Kạn
- Bạc Liêu
- Bắc Ninh
- Bến Tre
- Bình Định
- Bình Dương
- Bình Phước
- Bình Thuận
- Cà Mau
- Cao Bằng
- Đắk Lắk
- Đắk Nông
- Điện Biên
- Đồng Nai
- Đồng Tháp
- Gia Lai
- Hà Giang
- Hà Nam
- Hà Tĩnh
- Hải Dương
- Hậu Giang
- Hòa Bình
- Hưng Yên
- Khánh Hòa
- Kiên Giang
- Kon Tum
- Lai Châu
- Lâm Đồng
- Lạng Sơn
- Lào Cai
- Long An
- Nam Định
- Nghệ An
- Ninh Bình
- Ninh Thuận
- Phú Thọ
- Phú Yên
- Quảng Bình
- Quảng Nam
- Quảng Ngãi
- Quảng Ninh
- Quảng Trị
- Sóc Trăng
- Sơn La
- Tây Ninh
- Thái Bình
- Thái Nguyên
- Thanh Hóa
- Thừa Thiên Huế
- Tiền Giang
- Trà Vinh
- Tuyên Quang
- Vĩnh Long
- Vĩnh Phúc
- Yên Bái