Thông tư liên tịch 520-TT/LB Hướng dẫn thi hành nghị định số 500-NĐ/LB của liên Bộ Quốc phòng – Tài chính - Cứu tế xã hội về vấn đề trợ cấp quân nhân tình nguyện ốm yếu cần cho phục viên mà không còn khả năng lao động
Số, ký hiệu | 520-TT/LB |
Loại văn bản | Thông tư liên tịch |
Ngày ban hành | 22/11/1958 |
Ngày hiệu lực | 22/11/1958 |
Ngày đăng công báo | |
Nguồn thu nhập | |
Nghành | Tài chính |
Lĩnh vực | Tài chính khác |
Cơ quan ban hành | Bộ Tài Chính |
Chức danh | Thứ trưởng |
Người ký | Nguyễn Văn Vịnh |
Phạm vi | Thứ trưởng |
Thông tin áp dụng | |
Tình trạng hiệu lực | Còn hiệu lực |
BỘ TÀI CHÍNH-BỘ QUỐC PHÒNG
Số:
520-TT/LB
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Toàn quốc,
ngày
22 tháng
11 năm
1958
|
THÔNG TƯ
Hướng dẫn thi hành Nghị định số 500-NĐ/LB của liên Bộ Quốc phòng – Tài chính - Cứu tế xã hội về vấn đề trợ cấp quân nhân tình nguyện ốm yếu cần cho phục viên mà không còn khả năng lao động
________________________
Thi hành nghị quyết của Thường vụ Hội đồng Chính phủ ngày 29 tháng 10 năm 1958 và Nghị định số 500-NĐ/LB của Liên bộ Quốc phòng – Tài chính - Cứu tế Xã hội về vấn đề trợ cấp cho quân nhân ốm yếu phục viên, Liên bộ giải thích một số điểm cụ thể và hướng dẫn việc thi hành như sau:
1 – Việc quy định trợ cấp dài hạn cho những quân nhân tình nguyện ốm yếu cần cho phục viên mà không còn khả năng lao động nhằm giúp đỡ và tạo điều kiện sinh sống cho anh em khi ra ngoài quân đội. Quy định này xuất phát từ tình hình thực tế của quân đội và khả năng tài chính của Nhà nước.
2 – Những quân nhân tình nguyên ốm yếu cần cho phục viên mà không còn khả năng lao động nên ở điều 1 trong Nghị định là những người đã tham gia quân đội từ trước ngày hòa bình lập lại (20-7 năm 1954) bao gồm chiến sĩ, cán bộ hiện nay hoặc do sức khỏe quá yếu, hoặc do bệnh tật bị tàn phế, hoặc do tuổi già đã mất hầu hết sức lao động, bản thân không thể công tác hoặc lao động sản xuất để tự nuôi sống mình (không kể thương binh).
3 – Loại được trợ cấp 12.000 đồng một tháng áp dụng nhất loạt cho những quân nhân tình nguyện ốm yếu, mất sức lao động hiện đang hưởng theo chế độ cung cấp.
- Loại thứ hai, ngoài điều kiện sức khỏe đã quy định trong điều 1 của Nghị định, còn phải có những điều kiện dưới đây:
a) Phải là cán bộ hưởng theo chế độ tiền lương.
b) Đã phục vụ trong quân đội từ năm năm trở lên.
Mức trợ cấp hàng tháng cho một cán bộ hưởng theo chế độ tiền lương, có năm năm tuổi quân lấy khởi điểm là 30% lương cơ bản hàng tháng của người cán bộ đó hiện đang hưởng. Từ năm thứ 6 trở đi, cứ thêm một năm tuổi quân, trợ cấp sẽ thêm 1%.
Như vậy, cán bộ tuy cùng một cấp, nhưng người có thâm niên nhiều hơn thì được hưởng tỷ lệ trợ cấp cao hơn; cán bộ cùng thâm niên như nhau nhưng người cấp bậc cao hơn thì được hưởng trợ cấp nhiều hơn.
Những quân nhân đủ tiêu chuẩn hưởng trợ cấp dài hạn khi phục viên sẽ không lĩnh tiền trợ cấp sản xuất, và tiền trợ cấp sức khỏe ngắn hạn. Nhưng khi sức khỏe đã hồi phục, nếu xét thấy có thể rút trợ cấp sức khỏe dài hạn thì quân nhân ấy lại được hưởng tiền trợ cấp sản xuất như những quân nhân phục viên khác. Trong khi được trợ cấp sức khỏe quân nhân vẫn được hưởng mọi quyền lợi về tinh thần và vật chất như những quân nhân phục viên khác như đã quy định từ trước đến nay.
Riêng với các anh hùng quân đội hiện hưởng theo chế độ cung cấp thì nhất loạt được hưởng trợ cấp như Trung đội trưởng hay Thiếu úy.
Đối với quân nhân thuộc loại trên nếu trước khi nhập ngũ đã là cán bộ Dân – Chính - Đảng thoát ly làm công tác ở cơ quan từ cấp huyện trở lên thì mỗi năm công tác ở bên ngoài cũng được coi như một năm phục vụ trong quân đội và được tính tỷ lệ trợ cấp.
4 – Thành phần hội đồng khám sức khỏe từ cấp Trung đoàn trở lên có thẩm quyền xét duyệt cho quân nhân được hưởng tiền trợ cấp sức khỏe quy định ở điều II trong Nghị định gồm: một đại biểu của thủ trưởng đơn vị, một Bác sĩ hoặc một Quân y sĩ, một đại biểu của Đảng ủy đơn vị.
Cấp Trung đoàn hoặc tương đương Trung đoàn xét duyệt cho các quân nhân hưởng theo chế độ cung cấp.
Cấp Sư đoàn, Quân khu xét duyệt từ cấp Trung đội trưởng đến Đại đội trưởng hoặc từ Chuẩn úy đến Thượng úy và đề nghị lên Bộ Quốc phòng xét duyệt đối với cán bộ từ cấp Tiểu đoàn phó hoặc từ Đại úy trở lên.
Mỗi khi xét duyệt các cấp phải cân nhắc, thận trọng, nắm vững chính sách và tiêu chuẩn.
5 – Sau hai năm tính từ ngày phục viên, những quân nhân hưởng trợ cấp dài hạn đều được kiểm tra lại sức khỏe do Hội đồng kiểm tra sức khỏe của tỉnh, thành phố hoặc khu đảm nhiệm; nếu được chứng nhận sức khỏe đã bình phục, có đủ sức lao động để tự sinh sống thì sẽ chấm dứt trợ cấp và được lĩnh khoản trợ cấp sản xuất như đã định như những quân nhân phục viên khác. Ngược lại những quân nhân chưa đủ khả năng lao động để tự sống thì vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp trong thời hạn hai năm nữa, sau đó cứ hai năm một lần lại kiểm tra sức khỏe như đã quy định trên.
6 – Những quân nhân hưởng trợ cấp dài hạn mà hiện nay không có gia đình hoặc nơi nương tựa đều được thu nhận vào các trại an dưỡng của Bộ Cứu tế xã hội. Các khoản trợ cấp hàng tháng sẽ do trại an dưỡng đài thọ dựa vào sức khỏe, cấp bậc và tiêu chuẩn quy định hiện hành.
Trường hợp khoản trợ cấp dài hạn của quân nhân thấp hơn mức sinh hoạt ở trại thì quân nhân đó được hưởng theo tiêu chuẩn phụ cấp ở trại. Ngược lại, nếu khoản trợ cấp cao hơn mức sinh hoạt ở trại thì hàng tháng quân nhân đó chỉ phải trả theo mức sinh hoạt ở trại và được hưởng số tiền còn lại (theo như điều 4 trong Nghị định).
7 – Quy định về thể lệ cấp phát và lĩnh tiền trợ cấp dài hạn:
a) Để thuận tiện cho công việc lúc đầu, quỹ trợ cấp sức khỏe dài hạn trong năm 1958 sẽ do ngân sách của Bộ Quốc phòng đài thọ, bắt đầu từ năm 1959, ngân sách này sẽ chuyển sang Bộ Cứu tế xã hội. Hàng năm Bộ Cứu tế xã hội sẽ làm dự trù và phụ trách việc theo dõi cấp phát.
b) Quân nhân được hưởng trợ cấp dài hạn, ngoài các giấy tờ cần thiết cấp như một quân nhân thường, còn có một quyển sổ “lĩnh tiền trợ cấp dài hạn” (Nội dung cụ thể sẽ quy định sau).
c) Tiền trợ cấp dài hạn ấn định cấp phát ba tháng một kỳ và cấp phát vào đầu tháng của từng quý, do cơ quan Cứu tế xã hội tỉnh cấp phát. Khi đến lĩnh tiền quân nhân phải mang theo các giấy tờ như quyết định hoặc lý lịch quân nhân phục viên, sổ lĩnh tiền trợ cấp dài hạn.
Trường hợp quân nhân bị đau yếu không đi lĩnh được có thể viết giấy ủy nhiệm cho cha mẹ, vợ con, anh chị em ruột đi lĩnh thay, có chứng thực của Ủy ban Hành chính xã.
Trong khi thi hành, các đơn vị trong quân đội, các cơ quan các ngành có liên quan nếu cần hỏi gì thêm về chi tiết, xin trực tiếp liên hệ trao đổi với Liên bộ (chủ yếu là Bộ Quốc phòng).
KT. BỘ TRƯỞNG Bộ Tài chính | KT. BỘ TRƯỞNG Bộ Quốc phòng | Bộ trưởng | |||||
(Đã ký) | (Đã ký) | ||||||
Nguyễn Văn Vịnh | Nguyễn Xiển | Nguyễn Thanh Sơn |
Văn bản được HD, QĐ chi tiết(0)
Văn bản hiện thời(1)
Văn bản HD, QĐ chi tiết(0)
Văn bản hết hiệu lực(0)
Văn bản căn cứ(0)
Văn bản quy định hết hiệu lực(0)
Văn bản bị hết hiệu lực 1 phần(0)
Văn bản dẫn chiếu(0)
Văn bản quy định hết hiệu lực 1 phần(0)
Văn bản bị đình chỉ(0)
Văn bản liên quan khác(0)
Văn bản đình chỉ(0)
Văn bản bị đình chỉ 1 phần(0)
Văn bản đình chỉ 1 phần(0)
Văn bản được bổ sung(0)
Văn bản bổ sung(0)
Văn bản được sửa đổi(0)
Văn bản sửa đổi(0)
- 520.TT.LB.doc - Tải về
Thời gian ban hành
Cơ quan ban hành
Loại văn bản
- Quyết định
- Nghị quyết
- Chỉ thị
- Thông tư
- Thông tư liên tịch
- Thông báo
- Nghị định
- Chương trình
- Pháp lệnh
- Luật
- Văn bản liên quan
- Văn bản khác
- Sắc lệnh
- Văn bản hợp nhất
- Nghị quyết liên tịch
- Công văn
- Bộ luật
- Lệnh
- Thông tư liên bộ
- Hiến pháp
- Hiệp định
- Sắc luật
- Công điện
- Quy chuẩn
- Tiêu chuẩn Việt Nam
- Hướng dẫn
- Quy chế
- Quy định
Chính phủ
Bộ ngành
- Bộ Công an
- Bộ Công thương
- Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Bộ Giao thông vận tải
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư
- Bộ Khoa học và Công nghệ
- Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
- Bộ Nội vụ
- Bộ Ngoại giao
- Bộ Quốc phòng
- Bộ Tài chính
- Bộ Tài nguyên và Môi trường
- Bộ Tư pháp
- Bộ Thông tin và Truyền thông
- Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch
- Bộ Xây dựng
- Bộ Y tế
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
- Thanh tra Chính phủ
- Ủy ban Dân tộc
- Văn phòng Chính phủ
- Kiểm toán Nhà nước
- Tòa án nhân dân tối cao
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Địa phương
- Hà Nội
- TP HCM
- Đà Nẵng
- Hải Phòng
- Cần Thơ
- An Giang
- Bà Rịa - Vũng Tàu
- Bắc Giang
- Bắc Kạn
- Bạc Liêu
- Bắc Ninh
- Bến Tre
- Bình Định
- Bình Dương
- Bình Phước
- Bình Thuận
- Cà Mau
- Cao Bằng
- Đắk Lắk
- Đắk Nông
- Điện Biên
- Đồng Nai
- Đồng Tháp
- Gia Lai
- Hà Giang
- Hà Nam
- Hà Tĩnh
- Hải Dương
- Hậu Giang
- Hòa Bình
- Hưng Yên
- Khánh Hòa
- Kiên Giang
- Kon Tum
- Lai Châu
- Lâm Đồng
- Lạng Sơn
- Lào Cai
- Long An
- Nam Định
- Nghệ An
- Ninh Bình
- Ninh Thuận
- Phú Thọ
- Phú Yên
- Quảng Bình
- Quảng Nam
- Quảng Ngãi
- Quảng Ninh
- Quảng Trị
- Sóc Trăng
- Sơn La
- Tây Ninh
- Thái Bình
- Thái Nguyên
- Thanh Hóa
- Thừa Thiên Huế
- Tiền Giang
- Trà Vinh
- Tuyên Quang
- Vĩnh Long
- Vĩnh Phúc
- Yên Bái